Chảy máu là gì? Các công bố khoa học về Chảy máu
Chảy máu là quá trình mất máu từ một vết thương hoặc tổn thương trên cơ thể. Nó xảy ra khi mạch máu bị rạn, gãy hoặc bị xé rách, dẫn đến việc máu chảy ra khỏi m...
Chảy máu là quá trình mất máu từ một vết thương hoặc tổn thương trên cơ thể. Nó xảy ra khi mạch máu bị rạn, gãy hoặc bị xé rách, dẫn đến việc máu chảy ra khỏi mạch máu. Chảy máu có thể là dấu hiệu của một vết thương nhỏ hoặc một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, nhưng trong nhiều trường hợp, nó là cách tự nhiên của cơ thể để làm sạch vết thương và giúp quá trình lành vết thương. Tuy nhiên, nếu chảy máu quá mức hoặc không ngừng lại, nó có thể gây nguy hiểm đến sức khỏe và yêu cầu hỗ trợ y tế.
Khi xảy ra một vết thương, các mạch máu trong khu vực bị tổn thương sẽ bắt đầu co lại để giảm thiểu mất máu và hình thành một cục máu đông. Quá trình này được gọi là quá trình cầm máu. Khi máu cứ đông lại, nó tạo thành một lớp ở vùng tổn thương để ngăn máu tiếp tục chảy ra.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, quá trình cầm máu không xảy ra hoặc không đủ để ngăn chặn chảy máu. Điều này có thể xảy ra khi vết thương quá lớn, vị trí của nó đặc biệt nhạy cảm hoặc có một vấn đề sức khỏe khác gây ảnh hưởng đến quá trình cầm máu. Những tình trạng như động mạch bị rạn, gãy xương, tổn thương cơ quan nội tạng, tổn thương hệ thống cơ gây chảy máu nhanh chóng và không thể kiểm soát.
Trong trường hợp chảy máu quá mức hoặc không thể kiểm soát, cần được xử lý ngay lập tức để ngăn chặn mất quá nhiều máu. Người cần tiếp tục cầm máu bằng cách áp lực lên vùng tổn thương hoặc sử dụng các vật liệu như vải sạch để áp lực vào vết thương. Đồng thời, cần gọi điện thoại cấp cứu hoặc đưa người bị chảy máu đến bệnh viện gần nhất để được đặt đúng phương pháp chứa máu và điều trị nhanh chóng.
Chảy máu có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, bao gồm suy giảm áp lực máu, thiếu máu nếu mất quá nhiều máu, sự suy yếu và tăng nguy cơ nhiễm trùng. Do đó, quá trình kiểm soát chảy máu và điều trị ngay lập tức là rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe và đời sống của người bệnh.
Khi xảy ra chảy máu, có một số yếu tố cụ thể cần được hiểu:
1. Loại chảy máu: Chảy máu có thể là nội hoặc ngoại vi. Chảy máu nội xảy ra khi mạch máu bên trong cơ thể bị tổn thương, chẳng hạn như động mạch hoặc tĩnh mạch. Chảy máu ngoại vi xảy ra khi mạch máu bên ngoài cơ thể bị tổn thương, chẳng hạn như vết cắt hay vết thương bề mặt.
2. Tốc độ chảy máu: Một yếu tố quan trọng để xác định sự nghiêm trọng của chảy máu là tốc độ chảy máu. Chảy máu có thể được chia thành ba mức độ:
- Chảy máu nhẹ: Máu chảy ra chậm và thường không gây nguy hiểm đến tính mạng. Vết thương có kích thước nhỏ và thường không cần can thiệp y tế đặc biệt.
- Chảy máu trung bình: Máu chảy ra mạnh và không dừng lại tự nhiên. Có thể cần can thiệp y tế để ngăn chảy máu.
- Chảy máu nặng: Máu chảy ra mạnh mẽ và không thể kiểm soát. Đây là tình trạng khẩn cấp y tế và yêu cầu cần điều trị ngay lập tức để ngăn chặn mất máu nhiều và cứu sống bệnh nhân.
3. Nguyên nhân chảy máu: Chảy máu có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm:
- Vết thương cắt hoặc xây xát: Nếu da, mô hoặc mạch máu qua da bị tổn thương, nó có thể gây chảy máu.
- Các vấn đề về hệ tiết niệu hoặc hệ tiêu hóa: Chảy máu từ niệu đạo, túi niệu hoặc ruột có thể gây chảy máu.
- Các vấn đề về hệ tuần hoàn: Các vấn đề như vỡ động mạch, suy tim, bạo tiết mạch, hoặc sự hình thành cục máu đông trong mạch máu có thể gây chảy máu.
4. Các biện pháp kiểm soát chảy máu: Đối với chảy máu nhẹ hoặc trung bình, người ta có thể dừng chảy máu bằng các biện pháp sau:
- Áp lực: Áp lực cung cấp bằng bàn tay hoặc khăn sạch có thể giúp dừng chảy máu.
- Nâng cao vị trí thương tổn: Nếu có thể, nâng cao vị trí chảy máu có thể giúp giảm thiểu chảy máu.
- Giữ lạnh: Đặt một bộ phận lạnh trên vùng tổn thương có thể làm co mạch máu và giảm chảy máu.
- Cắt cơn chảy máu: Trong một số trường hợp, các bộ phận chảy máu cắt đi để kiểm soát chảy máu.
Đối với chảy máu nặng hoặc không thể kiểm soát, việc đến bệnh viện ngay lập tức để nhận cấp cứu và điều trị là quan trọng để ngăn chặn mất máu quá nhiều và đảm bảo sự an toàn của bệnh nhân.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chảy máu":
Cắt đoạn thực quản bằng kỹ thuật Milnes Walker để xử lý tĩnh mạch thực quản chảy máu cấp đã được thực hiện cho 38 bệnh nhân. Chảy máu tiếp tục hoặc tái phát trong bệnh viện ở 11 bệnh nhân, tất cả đều đã tử vong sau đó. Thêm 10 bệnh nhân nữa đã tử vong trong bệnh viện sau phẫu thuật do suy gan và nhiều nguyên nhân khác. Năm bệnh nhân cuối cùng được xem là đủ tiêu chuẩn cho phẫu thuật shunt định kỳ, nhưng trong số 12 bệnh nhân được xuất viện mà không phải phẫu thuật thêm, chỉ có 2 người bị chảy máu lại. Mặc dù tỷ lệ sống sau 6 tháng là 32% chung, nhưng ở những bệnh nhân có chức năng gan tốt trước phẫu thuật, tỷ lệ này tăng lên 71%. Hệ thống chấm điểm đơn giản để đánh giá mức độ rối loạn chức năng gan đã cho thấy có giá trị trong việc dự đoán kết quả phẫu thuật.
Kết quả của cắt đoạn thực quản chảy máu trong kinh nghiệm của chúng tôi đã vô cùng thất vọng, vì vậy chúng tôi đang sử dụng nó ít hơn và đang thử nghiệm phương pháp ghép mạch nối tĩnh mạch mesenteric như một phẫu thuật cấp cứu để kiểm soát các tĩnh mạch giãn chảy máu.
Kiến thức về phổ triệu chứng ở những bệnh nhân mắc afibrinogenaemia di truyền bị hạn chế bởi sự hiếm gặp của khiếm khuyết đông máu này. Chúng tôi đã so sánh một loạt lớn 55 bệnh nhân afibrinogenaemic từ Iran với 100 bệnh nhân thiếu hụt yếu tố VIII nặng. Ở afibrinogenaemia, có sự gia tăng tần suất triệu chứng chảy máu loại niêm mạc, nhưng chảy máu khớp và cơ ít xảy ra và ít nghiêm trọng hơn so với bệnh máu khó đông. Chảy máu dây rốn tương đối thường xuyên chỉ ở những bệnh nhân afibrinogenaemic. Hai bệnh nhân trẻ phát triển các đợt huyết khối tự phát và ba phụ nữ có tiền sử sảy thai tái phát. Tổng quan, trong afibrinogenaemia, triệu chứng chảy máu có tính chất khác biệt về chất lượng và ít nghiêm trọng hơn so với bệnh máu khó đông. Afibrinogenaemia cũng có thể đi kèm với các biểu hiện huyết khối.
Paracetamol (acetaminophen) là một loại thuốc được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới, với lịch sử lâu dài trong việc điều trị đau cấp tính và mãn tính. Trong những năm gần đây, lợi ích của việc sử dụng paracetamol trong các bệnh mãn tính bị đưa vào nghi vấn, đặc biệt trong các lĩnh vực như thoái hóa khớp và đau lưng dưới. Cùng lúc đó, sự lo ngại về các tác dụng phụ lâu dài của paracetamol đã gia tăng, ban đầu là trong lĩnh vực tăng huyết áp, nhưng gần đây đã mở rộng ra các lĩnh vực khác. Cơ sở bằng chứng về các tác dụng phụ của việc sử dụng paracetamol mãn tính bao gồm nhiều nghiên cứu đoàn hệ và quan sát, với ít thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, trong đó nhiều nghiên cứu mâu thuẫn với nhau, vì vậy cần phải giải thích những nghiên cứu này một cách cẩn thận. Tuy nhiên, có một số lĩnh vực trong đó bằng chứng về tác hại là rõ ràng hơn, và nếu bác sĩ bắt đầu sử dụng paracetamol với kỳ vọng sử dụng dài hạn, có thể cần thảo luận trước những tác động phụ này với bệnh nhân. Đặc biệt, tăng nguy cơ chảy máu dạ dày và tăng huyết áp tâm thu nhỏ (~4 mmHg) là các tác dụng phụ trong đó bằng chứng đặc biệt mạnh mẽ và cho thấy sự phụ thuộc liều lượng. Khi sự ước tính về lợi ích giảm, đánh giá chính xác về các tác hại ngày càng trở nên quan trọng. Bài tổng quan này tóm tắt bằng chứng hiện tại về các tác hại liên quan đến việc sử dụng paracetamol lâu dài, tập trung vào bệnh tim mạch, hen suyễn và tổn thương thận, cũng như ảnh hưởng của việc tiếp xúc
Các bệnh nhân nhi khi thực hiện phẫu thuật mở hộp sọ và phẫu thuật chỉnh hình mặt có thể gặp phải sự mất máu đáng kể. Lượng máu mất và độ nghiêm trọng sẽ phụ thuộc vào tính chất của quy trình phẫu thuật, khoảng cách đến các mạch máu lớn, cũng như độ tuổi và trọng lượng của bệnh nhân. Mục tiêu nên là duy trì sự ổn định huyết động và khả năng vận chuyển oxy, ngăn ngừa và điều trị tình trạng hyperfibrinolysis và rối loạn đông máu do pha loãng. Cần tối thiểu hóa tình trạng truyền máu quá mức và các tác dụng phụ liên quan đến truyền máu. Bài viết này sẽ làm nổi bật các yếu tố quan trọng trong việc quản lý chảy máu lớn ở bệnh nhân nhi khi thực hiện phẫu thuật mở hộp sọ và phẫu thuật chỉnh hình mặt. Các hướng dẫn của Bắc Mỹ và châu Âu về việc quản lý dịch và sản phẩm máu trong quá trình phẫu thuật sẽ được thảo luận.
<b><i>Bối cảnh:</i></b> Hấp thụ miễn dịch (IAS) và trao đổi plasma điều trị (TPE) được coi là an toàn mặc dù fibrinogen bị loại bỏ. Cho đến nay, không có nghiên cứu nào so sánh giảm fibrinogen và nguy cơ chảy máu liên quan trong quá trình tách huyết tương. <b><i>Phương pháp:</i></b> Phân tích hồi cứu của TPE, ba bộ hấp thụ IAS và kết hợp TPE/IAS về giảm fibrinogen và tỷ lệ mắc chảy máu ở 67 bệnh nhân (1.032 liệu pháp). <b><i>Kết quả:</i></b> TPE và TPE/IAS làm giảm fibrinogen lần lượt là 64 ± 11% và 58 ± 9%, dẫn đến nồng độ <100 mg/dl trong 20% và 17% số liệu pháp. IAS làm giảm fibrinogen ít hơn TPE (26 ± 6%, p < 0.0001), dẫn đến nồng độ fibrinogen <100 mg/dl trong 1% số liệu pháp. Thể tích đã xử lý có mối tương quan với sự giảm trong TPE (r = 0.64, p < 0.01), nhưng không có ở IAS. Chảy máu xảy ra trong 1.3% (IAS), 2.3% (TPE) và 3.1% (TPE/IAS) số liệu pháp. <b><i>Kết luận:</i></b> Tình trạng giảm fibrinogen huyết xảy ra ở 20% bệnh nhân sau TPE và TPE/IAS, nhưng hiếm khi xảy ra sau IAS. IAS loại bỏ fibrinogen một cách độc lập với thể tích đã xử lý. Tóm lại, chảy máu là hiếm khi trong quá trình tách huyết tương.
Để đo lường sự biểu hiện khác biệt của microRNA (miRNA) trong mẫu máu ngoại vi từ các bệnh nhân bị chảy máu nội sọ (ICH) và để đo lường mức độ của hsa-miR-21-5p trong mẫu máu ngoại vi và mẫu huyết khối từ các bệnh nhân ICH.
Nghiên cứu trường hợp – đối chứng này tuyển dụng những cá nhân với ICH ở nhân đậu được điều trị bằng mở hộp sọ và những đối chứng khỏe mạnh tương ứng về độ tuổi và giới tính. Hồ sơ biểu hiện miRNA huyết thanh được xác định trong nhóm bệnh nhân và nhóm đối chứng bằng cách sử dụng kỹ thuật chuỗi polymerase miRNA (PCR). MiRNA liên quan đến ICH hsa-miR-21-5p đã được chọn và sự biểu hiện khác biệt của nó đã được đánh giá trong các mẫu máu ngoại vi và mẫu huyết khối từ các bệnh nhân ICH so với các mẫu máu ngoại vi của đối chứng bằng kỹ thuật PCR thời gian thực.
Bảy bệnh nhân và năm đối tượng đối chứng đã được bao gồm trong phân tích hồ sơ biểu hiện miRNA; và 31 bệnh nhân và 22 đối tượng đối chứng đã cung cấp mẫu cho kỹ thuật PCR thời gian thực nhằm xác định sự biểu hiện của hsa-miR-21-5p. Tổng cộng có 59 miRNAs đã được giảm rõ rệt ở các bệnh nhân ICH. Mức độ tương đối của hsa-miR-21-5p là 0.43 và 0.31 cho mẫu máu ngoại vi và mẫu huyết khối, tương ứng, được ghi nhận trong nhóm bệnh nhân so với các đối chứng.
Mức độ của hsa-miR-21-5p đã giảm đáng kể trong cả mẫu máu ngoại vi và mẫu huyết khối ở các bệnh nhân ICH.
<b><i>Đặt vấn đề/Mục tiêu:</i></b> Mục tiêu của nghiên cứu hiện tại là xác định mối liên hệ giữa sự canxi hóa động mạch và các vết chảy máu vi mạch (CMB) liên quan đến phân bố của chúng. <b><i>Phương pháp:</i></b> Chúng tôi đã xác định 834 bệnh nhân liên tiếp bị đột quỵ thiếu máu cục bộ cấp tính hoặc cơn thiếu máu thoáng qua đã được thực hiện chụp mạch CT và hình ảnh trọng số độ nhạy. <b><i>Kết quả:</i></b> Canxi hóa động mạch cảnh trong (ICA) và CMB được phát hiện ở 660 bệnh nhân (79.1%) và 335 bệnh nhân (40.2%), tương ứng. Canxi hóa ICA có mối liên hệ độc lập với CMB ở bất kỳ vị trí nào (tỷ lệ odds, OR, 2.86, 95% CI 2.01-4.08, p < 0.0001). Mối liên hệ giữa canxi hóa và CMB sâu mạnh hơn (OR 3.51, 95% CI 2.39-5.14, p < 0.0001). Tuy nhiên, canxi hóa ICA không có liên quan đến CMB trong khu vực strict lobar. <b><i>Kết luận:</i></b> Canxi hóa ICA là yếu tố nguy cơ độc lập cho CMB sâu nhưng không phải cho CMB strict lobar. Các phát hiện của chúng tôi có thể góp phần làm sáng tỏ nguyên nhân bệnh sinh của bệnh mạch nhỏ trong não.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10